Phụ
nữ trong thời kỳ có thai, sinh lý có một số thay đổi đặc biệt, điều rõ nhất ở
lượng máu và đồng hóa dị hóa tăng lên.
Những
thay đổi sinh lý này đòi hỏi được bù đắp bằng ăn uống cho người mẹ, đồng thời
thai cũng đòi hỏi có đủ dinh dưỡng để phát triển. Do đó phụ nữ có thai phải đặc
biệt chú ý việc ăn uống, mặc ấm và vệ sinh dinh dưỡng.
Y học
rất quan tâm đến điểm này, cho rằng chế độ ăn uống và vệ sinh dinh dưỡng không
những liên quan đến sức khỏe của người mẹ mà còn rất quan trọng đối với sự phát
triển bình thường của thai.
Trong
"Liệt nữ truyện”có ghi: Ngày xưa phụ nữ có thai, ngủ không nằm nghiêng,
người không lệch, đứng không xiêu vẹo, không ăn thức ăn có độc và mất vệ sinh,
mắt không nhìn tà sắc, tai không nghe nói chuyện dâm loạn, hành ác, bạo lực,
như thế sanh con mới đoan chính, thông minh tài ba hơn người.
Thời
hậu Hán trong "Kim quỹ yếu lược”của Trương Cơ chuyên bàn về các chứng, mạch
của phụ nữ có thai và các cách chữa trị, có ghi rõ các điều cần kiêng kị trong
ăn uống, ví dụ: thời kỳ có thai thì dấm (rượu gạo), nước mắm, nước đại mạch, cháo
tiểu mạch là 4 loại nên ăn, còn gừng, thịt thỏ, thịt sơn dương, mỡ con hươu, con nai đều nên kiêng.
Về
sau các nhà y học vận dụng
-
Cháo cá chép: Thức ăn chữa được chứng phù và an thai
- Cháo
gà gạo tẻ: Dinh dưỡng tốt và an thai.
- Gạo
nếp, men rượu: Thức ăn chữa được thai động.
- Giá
đậu đỏ: Bột giá đậu đỏ uống với ít rượu ấm trị được lậu thai (thai mấy tháng vẫn
có lúc ra máu, do huyết quá nóng hoăc gần với chồng làm tổn hại thai),
- Lòng
đỏ trứng gà: Luộc với rượu ăn hàng ngày an thai và ngừa được số bệnh khác.
- Gan
gà: Chưng với rượu ăn hàng ngày an thai.
- Thịt
gà mái đen: Nấu gạo tẻ an thai.
Tất
cả các thức ăn trên, người phụ nữ có thai nên chế biến làm thức án hàng ngày rất
tốt.
Trong
sách "Đạt sanh sinh biên”có đề cập: Phụ nữ có thai nên ăn uống đạm bạc, không nên ăn chất béo nồng, kích thích mạnh,
thức ăn, nước uống quá đậm đặc, chất cay nóng, thức ăn quá béo, quá ngọt, quá mặn
và còn cần phải biết cách sống với tình chí bình thường, thanh thản.
tánh vui giận, buồn, lo, sợ sệt quá sẽ tổn
thương đến nội tạng của thai phụ.
Lo
buồn nhiều thì khí uất kết, súy nghĩ nhiều thì khí bị ngăn lại, giận tức nhiều
thì khí bị đưa lên, huyết cùng lối càng bị vọng hành, chẳng những tổn thường đến thai nhi mà còn sinh nhiều bệnh tật khác
cho người đàn bà.
Ngày
xưa, khi có thai từ 3 tháng trở lên thì thường về nhà cha mẹ ruột, tránh sự gần
gũi chồng, để dưỡng thai và bảo vệ sức khỏe sau khi sanh. Nhưng cũng có nhiều cặp
vợ chồng không tự khuyên nhau kiêng cữ, phòng dục quá độ có thể gây trụy thai
hoặc tinh khí xấu ngưng đọng, bao bọc nhau thai... gây ra chứng ho và tổn.
Thai
nhi luôn luôn chiu ảnh hưởng mọi sinh hoạt đời sống của người mẹ, nên người mẹ
phải thận trọng trong việc ăn uống các chất chua, đắng, mặn, ngọt, cay nhiều
quá làm tổn thương đến 5 tạng.
Nói
về tình chí, người mẹ thường vui mừng quá độ thì tổn thương đến tâm, khí bị hao
tán, sinh chứng hồi hộp, kém trí nhớ.
Giận nhiều thì tạng can bị tổn thương,
khí bị đưa ngược lên, sinh ra chứng huyền vựng (xây xẩm, huyết áp dao động)...
Suy nghĩ quá thì hại tỳ, khí bị uất, sinh chứng no hơi, đầy bụng, kém ăn, mất
ngủ. Phiền lo quá thì hại tạng phế, khí bị kết đàm trệ, sinh chứng tức ngực,
khó thở, hen suyễn... Kinh sợ quá thì hại thận, khí thường bị giáng xuống (khí
trệ), thai trệ, tiểu không thông, cảm thấy tức
ở hậu môn, tiểu rắt buốt.
Theo
lời dặn trên, người đàn bà phải cố gắng thực hiện và kể cả người chồng cũng phải
biết trọng sinh mạng vợ con đừng vì dục vọng riêng tư, thỏa mãn cá tính. Hạnh
phúc chỉ đến với gia đình khi nào được sống với cảnh vợ khỏe, con ngoan.